6. về chi phái Si-mê-ôn, Sê-lu-mi-ên, con trai của Xu-ri-ha-đai;
7. về chi phái Giu-đa, Na-ha-sôn, con trai của A-mi-na-đáp;
8. về chi phái Y-sa-ca, Na-tha-na-ên, con trai của Xu-a;
9. về chi phái Sa-bu-lôn, Ê-li-áp, con trai của Hê-lôn;
10. về con cháu Giô-sép, nghĩa là về chi phái Ép-ra-im, Ê-li-sa-ma, con trai của A-mi-hút; về chi phái Ma-na-se, Ga-ma-li-ên, con trai của Phê-đát-su;
11. về chi phái Bên-gia-min, A-bi-đan, con trai của Ghi-đeo-ni;
12. về chi phái Đan, A-hi-ê-xe, con trai của A-mi-sa-đai;
13. về chi phái A-se, Pha-ghi-ên, con trai của Óc-ran;
14. về chi phái Gát, Ê-li-a-sáp, con trai của Đê-u-ên;
15. về chi phái Nép-ta-li, A-hi-ra, con trai của Ê-nan.
16. Đó là những người được gọi từ trong hội chúng, vốn là quan trưởng của các chi phái tổ phụ mình, và là quan tướng quân đội Y-sơ-ra-ên.
17. Vậy, Môi-se và A-rôn nhận lấy các người ấy mà đã được xướng tên;
18. đến ngày mồng một tháng hai, truyền nhóm cả hội chúng, cứ kể tên từng người từ hai mươi tuổi sắp lên mà nhập sổ theo họ hàng và tông tộc của họ.
19. Vậy, Môi-se kê sổ chúng nó tại đồng vắng Si-na-i, y như Đức Giê-hô-va đã phán dặn.