24. Quan chỉ huy vệ binh bắt Sê-ra-gia, thầy tế lễ cả, và Sô-phô-ni, thầy tế lễ phó, cùng ba người canh cửa đền.
25. Trong thành, ông cũng bắt một hoạn quan chỉ huy binh lính, bảy cận thần của vua có mặt trong thành, một thư ký của chỉ huy trưởng quân đội lo việc tuyển quân trong xứ; cùng sáu mươi người dân trong xứ có mặt trong thành.
26. Quan chỉ huy vệ binh Nê-bu-xa-a-đan bắt và giải những người ấy đến vua Ba-by-lôn tại Ríp-la.
27. Vua Ba-by-lôn sai đánh và giết họ tại Ríp-la, trong đất Ha-mát.Thế là dân Giu-đa bị lưu đày biệt xứ.
28. Đây là số người mà Nê-bu-cát-nết-sa lưu đày:Năm thứ bảy, có ba ngàn hai mươi ba người Giu-đa.
29. Năm thứ mười tám đời Nê-bu-cát-nết-sa,có tám trăm ba mươi hai người từ thành Giê-ru-sa-lem.
30. Năm thứ hai mươi ba đời vua ấy,quan chỉ huy vệ binh Nê-bu-xa-a-đan bắt đày bảy trăm bốn mươi lăm người Giu-đa.Tổng cộng là bốn ngàn sáu trăm người.
31. Năm lưu đày thứ ba mươi bảy của vua Giu-đa là Giê-hô-gia-kin, tức là năm trị vì đầu tiên của Ê-vinh Mê-rô-đác, vua Ba-by-lôn, vào ngày hai mươi lăm tháng mười hai, vua nầy ân xá cho Giê-hô-gia-kin, vua Giu-đa, và đem ra khỏi ngục.
32. Vua nói năng nhã nhặn với vua Giê-hô-gia-kin và ban cho ông ngai cao hơn ngai của các vua khác cùng số phận với mình tại Ba-by-lôn.
33. Vậy, Giê-hô-gia-kin cởi bỏ áo tù, ngày ngày dùng bữa với vua suốt đời.
34. Hằng ngày, vua Ba-by-lôn ban bổng lộc đều đặn cho Giê-hô-gia-kin, suốt những ngày vua còn sống cho đến khi qua đời.