7. Các con của Sê-ma-gia là Ốt-ni, Rê-pha-ên, Ô-bết, Ên-xa-bát, và anh em họ là Ê-li-hu và Sê-ma-kia, đều là những người dũng cảm.
8. Tất cả những người nầy là con cháu của Ô-bết Ê-đôm; họ cùng với các con và anh em của họ đều là người dũng cảm và có khả năng làm việc, cộng sáu mươi hai người thuộc về dòng Ô-bết Ê-đôm.
9. Mê-sê-lê-mia có những người con và anh em đều là người dũng cảm, cộng mười tám người.
10. Hô-sa, thuộc dòng Mê-ra-ri, cũng có những người con: Đứng đầu là Sim-ri dù ông không phải là con đầu lòng vì cha của ông lập ông làm con trưởng;
11. con thứ nhì là Hinh-kia, con thứ ba là Tê-ba-lia, và con thứ tư là Xa-cha-ri. Tất cả các con và anh em của Hô-sa được mười ba người.
12. Những nhóm gác cổng nầy cùng với các trưởng nhóm theo phiên thứ mà phục vụ trong đền thờ Đức Giê-hô-va như anh em mình.
13. Họ theo gia tộc mình mà bắt thăm gác cổng, kẻ nhỏ cũng như người lớn.
14. Thăm giữ cổng đông trúng nhằm Sê-lê-mia. Rồi người ta bắt thăm giữ cổng bắc trúng nhằm con trai Sê-lê-mia là Xa-cha-ri, một cố vấn khôn ngoan.
15. Thăm giữ cổng nam trúng nhằm Ô-bết Ê-đôm; còn các con trai ông, canh giữ kho tàng.
16. Súp-pim và Hô-sa bắt thăm giữ cổng tây gần cổng Sa-lê-kết, cạnh con đường lên dốc. Trạm gác nầy đối diện trạm gác kia.
17. Mỗi ngày có sáu người Lê-vi gác cổng đông, bốn người ở cổng bắc, bốn người ở cổng nam, còn các kho tàng thì mỗi cổng hai người.
18. Tại Pạt-ba về phía tây cũng có người canh gác: trên đường có bốn người, và ngay tại Pạt-ba có hai người.
19. Đó là các nhóm gác cổng thuộc con cháu của Cô-ra và Mê-ra-ri.
20. Trong số những người Lê-vi, A-hi-gia phụ trách các kho tàng của đền thờ Đức Chúa Trời và kho tàng các vật thánh.