38. Cũng có rất nhiều người ngoại tộc cùng đi, dẫn theo từng đàn gia súc rất lớn.
39. Với bột đã nhồi ở Ai-cập, họ làm bánh không men. Bột này nhồi không pha men vì họ bị đuổi đi gấp, không kịp chuẩn bị lương thực đi đường.
40. Thời gian dân Y-sơ-ra-ên cư ngụ trong xứ Ai-cập là bốn trăm ba mươi năm.
41. Đúng vào ngày cuối cùng của thời gian bốn trăm ba mươi năm ấy, các đơn vị của CHÚA rời khỏi Ai-cập.
42. Vì CHÚA đã rút dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập vào đêm ấy, nên dân Y-sơ-ra-ên phải giữ đêm ấy làm kỷ niệm, từ thế hệ này đến thế hệ khác.
43. CHÚA phán bảo Môi-se và A-rôn: “Đây là các quy tắc về lễ vượt qua: người ngoại quốc không được ăn lễ ấy.
44. Nô lệ các con đã mua chỉ được phép ăn lễ sau khi chịu cắt bì,
45. nhưng những kiều dân tạm trú và người làm mướn không được phép ăn.
46. Thịt phải ăn trong nhà và không được đem ra khỏi nhà, cũng không được làm gẫy một cái xương nào cả.
47. Toàn thể cộng đồng Y-sơ-ra-ên phải dự lễ vượt qua.
48. Những ngoại kiều sống chung với người Y-sơ-ra-ên nếu muốn dự lễ vượt qua thì đàn ông phải chịu cắt bì; sau đó họ được phép ăn lễ như người sinh ra trong xứ. Đàn ông không chịu cắt bì không được phép ăn lễ.
49. Luật này áp dụng cho cả người sinh trong xứ lẫn người kiều ngụ.”