3. Họ đem lễ vật mình đến trước mặt CHÚA chở trong sáu cỗ xe do mười hai bò đực kéo, mỗi trưởng chi tộc một con bò và hai trưởng chi tộc một cỗ xe. Họ dâng các lễ vật đó trước Đền Tạm.
4. CHÚA phán bảo Môi-se:
5. “Con hãy thu các lễ vật của những người này để dùng vào công việc của Trại Hội Kiến. Con hãy giao các lễ vật ấy cho người Lê-vi tùy công tác của mỗi người.”
6. Vậy, Môi-se thu nhận các cỗ xe và bò đực rồi giao lại cho người Lê-vi:
7. hai cỗ xe và bốn con bò cho dòng họ Ghẹt-sôn tùy công tác họ,
8. bốn cỗ xe và tám con bò cho dòng họ Mê-ra-ri tùy theo công tác họ. Tất cả đều đặt dưới quyền chỉ huy của Y-tha-ma con trai thầy tế lễ A-rôn.
9. Nhưng Môi-se không giao xe và bò cho dòng họ Kê-hát vì các vật dụng thánh họ chịu trách nhiệm phải được khuân vác trên vai.
10. Khi bàn thờ được xức dầu, các nhà lãnh đạo đem lễ vật dâng lên trước bàn thờ để khánh thành.
11. Vì CHÚA đã phán dạy Môi-se: “Các nhà lãnh đạo phải mang đến lễ vật để khánh thành bàn thờ, mỗi ngày một người.”
12. Ngày thứ nhất, Na-ha-sôn con của A-mi-na-đáp, chi tộc Giu-đa, dâng lễ vật.
13. Lễ vật người gồm có một chiếc đĩa bạc nặng 1.50kg và một cái bát nặng 0.80kg, theo tiêu chuẩn cân đo nơi thánh: cả hai đều đầy bột lọc nhồi dầu, làm tế lễ chay;
14. một cái chén bằng vàng nặng 110gm đựng đầy hương liệu:
15. một con bò đực tơ, một con chiên đực, và một con chiên con một tuổi làm tế lễ thiêu:
16. một con dê đực làm tế lễ chuộc tội:
17. hai con bò đực, năm con dê đực và năm con chiên con đực một tuổi làm tế lễ cầu an. Đó là các lễ vật của Na-ha-sôn, con của A-mi-na-đáp.