23. con trai của Ên-ca-na là Ê-bi-a-sáp; con trai của Ê-bi-a-sáp là Át-si;
24. con trai của Át-si là Ta-hát; con trai của Ta-hát là U-ri-ên; con trai của U-ri-ên là U-xi-gia; con trai của U-xi-gia là Sau-lơ.
25. Con cháu của Ên-ca-na là: A-ma-sai và A-hi-mốt;
26. Về Ên-ca-na, con trai của Ên-ca-na là Xô-phai; con trai của Xô-phai là Na-hát;
27. con trai của Na-hát là Ê-li-áp; con trai Ê-li-háp là Giê-rô-ham; con trai của Giê-rô-ham là Ên-ca-na và con trai của Ên-ca-na là Sa-mu-ên.
28. Các con trai của Sa-mu-ên là: Va-sê-ni, con trưởng nam, con thứ là A-bi-gia.
29. Con cháu của Mê-ra-ri là: Mách-li; con trai Mách-li là Líp-ni; con trai của Líp-ni là Si-mê-i; con trai của Si-mê-i là U-xa;
30. con trai của U-xa là Si-mê-a; con trai của Si-mê-a là Ha-ghi-gia; con trai của Ha-ghi-gia là A-sai-gia.
31. Đây là những người vua Đa-vít cử ra đặt trách về việc ca hát trong đền của CHÚA sau khi rương giao ước đặt ở đó.
32. Họ phục vụ trong việc ca hát trước đền tạm, tức là trại hội kiến, cho đến khi Sa-lô-môn xây đền thờ CHÚA tại Giê-ru-sa-lem. Họ thi hành phận sự theo các qui luật đã định.
33. Đây là những người phục vụ cùng con cháu họ: Con cháu Kê-hát là: Hê-man, một ca sĩ, con trai của Giô-ên, Giô-ên con trai của Sa-mu-ên;
34. Sa-mu-ên là con trai của Ên-ca-na; Ên-ca-na là con trai của Giê-rô-ham; Giê-rô-ham là con trai của Ê-li-ên; Ê-li-ên là con trai của Thô-a;
35. Thô-a là con trai của Xu-phơ; Xu-phơ là con trai của Ên-ca-na; Ên-ca-na là con trai của Ma-hát; Ma-hát là con trai của A-ma-sai;